Làm sao để chọn nghề phù hợp

Chọn cho mình một nghề nghĩa là chọn cho mình một tương lai. Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn sai lầm một nghề nghĩa là đặt cho mình một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc.

Không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi: Làm thế nào chọn được một nghề phù hợp. Chính những nghĩ suy và trăn trở rằng tôi có phù hợp nghề này hay không, tôi có thực sự yêu thích nghề này hay không, nghề này có tương lai hay không… là những vấn đề cần được giải quyết khi bắt đầu quá trình chọn một nghề phù hợp.

Trước nhất, cần phải vượt qua sự tác động của những tư tưởng và quan điểm chưa thực sự đúng đắn và hợp lý khi chọn nghề:

- Chọn nghề theo sự áp đặt của người lớn, người khác.

- Chọn nghề theo chuẩn của nhóm, của bạn bè và của người yêu.

- Chọn nghề may rủi.

- Chọn nghề chỉ ở bậc Đại học.

- Chọn nghề theo “mác”, theo “nhãn”.

- Chọn nghề nổi tiếng, dễ kiếm tiền.

- Chọn nghề “gấp, rút” mà không có sự kiên nhẫn, hy sinh.

- Chọn nghề không nghĩ đến những điều kiện có liên quan như: điều kiện kinh tế cá nhân hoặc gia đình, thời gian học nghề, tuổi thọ của nghề, đầu ra của nghề…

Thứ đến, muốn chọn nghề phù hợp thực sự, cần phải chú ý thực hiện thật tốt các khâu trong quá trình hướng nghiệp. Không thể chờ đợi việc được hướng nghiệp mà bản thân mỗi người phải thực hiện sự tự hướng nghiệp cho chính mình bằng những nỗ lực tốt nhất có thể có của cá nhân.

Để chọn nghề phù hợp nhất thiết mỗi cá nhân cần phải:

1.Tìm hiểu nhiều nhất có thể có về những ngành nghề trong xã hội.

Trong mỗi ngành nghề, ít nhất là phải biết yêu cầu về nghề, triển vọng nghề nghiệp, mức lương, thị trường lao động… Ngoài ra, phải tìm hiểu cả môi trường làm việc, những thách thức nghề nghiệp, những khó khăn và thuận lợi trong nghề nghiệp…

Điều này chỉ được thực hiện khi cá nhân tìm được hoặc tiếp cận được bảng họa đồ nghề hoặc chí ít là những thông tin cần thiết về nghề qua một hướng dẫn nào đó:

- Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề.

- Nội dung và tính chất lao động của nghề.

- Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề.

- Những chống chỉ định y học.

- Những điều kiện đảm bảo cho người lao động khi làm nghề.

- Những nơi có thể học nghề.

- Những nơi có thể làm việc sau khi học nghề.

Bên cạnh đó, việc quan tâm và tìm hiểu thật kỹ về dấu hiệu cơ bản của nghề là điều quan trọng. Nhất thiết, muốn chọn nghề phù hợp thì mỗi cá nhân phải tìm hiểu về đối tượng lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động.

2.Tìm hiểu về chính bản thân mình để hướng đến việc tìm nghề phù hợp.

Phải trả lời thật chính xác những câu hỏi cơ bản nhất về chính mình cũng như những vấn đề tâm lý có liên quan: Tôi là ai, tôi cần gì và muốn gì, hạnh phúc với tôi là gì… Tất cả những câu hỏi này được thực hiện một cách nghiêm túc nhằm bước đầu định hướng cho việc tìm hiểu bản thân và để xác lập định hướng cuộc sống của chính mình.

Nhất thiết phải đánh giá thật chính xác về phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Việc tìm hiểu về năng lực của cá nhân như chỉ số IQ, CQ, EQ hay những khả năng cụ thể khác như sắc giác, chú ý (sức tập trung, sức phân phối…), quan sát, tư duy không gian, trí nhớ sơ đồ, tưởng tượng sáng tạo, ngôn ngữ… là những yêu cầu tối quan trọng. Điều này có thể thực thi thông qua một số bài tập, một số trắc nghiệm. Tuy vậy, điều quan trọng không kém là phải xác định thực sự được khả năng học tập và khả năng thi tuyển của cá nhân. Khả năng này là khả năng triển vọng chứ không phải là điểm số thực tế học tập. Đôi lúc, phải có ước mơ, phải có nỗ lực và sự kiên nhẫn chờ đợi, rèn luyện…

Tìm hiểu những đặc điểm tính cách, khí chất… của cá nhân cũng là một việc làm không kém phần quan trọng. Cá nhân phải biết mình là người có khí chấc cách như : Biết kiềm chế, trung thực, bảo mật, gan dạ, dũng cảm, cẩn thận… để hướng đến những nghề phù hợp trong lược đồ.

Chính cá nhân phải xác lập cho mình một suy nghĩ thật sự nghiêm túc: nghề mình yêu thích và những nghề có thể chấp nhận khi không có điều kiện lựa chọn cho bản thân.

Việc tìm hiểu chính bản thân về phương diện năng lực và phẩm chất sẽ giúp cá nhân so sánh chính mình với yêu cầu của lược đồ nghề nghiệp để chọn nghề hoặc chọn nhóm nghề phù hợp nhất. Lưu ý rằng đây phải là chọn nhóm nghề chứ không chỉ là chọn khối thi.

Bản thân người chọn nghề muốn tìm đến sự phù hợp cao nhất có thể có là không thể tự thân vận động đơn độc mà rất cần có sự hỗ trợ của một số chuyên viên tư vấn hướng nghiệp hoặc một số người thực sự có kinh nghiệm hướng nghiệp – chọn nghề.

Bên cạnh đó, nên tranh thủ nhiều nhất những điều kiện đang có để tìm hiểu thêm thực tế nghề nghiệp qua một số cá nhân đang làm nghề, tham quan thực tế nghề nghiệp, “thử “ đến về nghề… để có những định hướng hợp lý nhất và có thể điều chỉnh khi phù hợp. Chính 3 khâu: nhận thức về nghề, thái độ về nghề và xu hướng hành vi về nghề sẽ quyện chặt vào nhau và giúp cá nhân chọn nghề đúng đắn nhất, thích hợp nhất.

Chọn nghề phù hợp đòi hỏi nhiều yêu cầu khác nhưng nếu thực hiện được bước đầu những yêu cầu trên thì việc chọn nghề sẽ giảm thêm được nữa sự cảm tính, sự tổn hao của cá nhân – xã hội. Quan trọng nhất là người chọn nghề tự tin, thoải mái và chắc nịch tuyên bố ngầm rằng: Mình sẽ và phải làm tốt lựa chọn của mình! Sự phù hợp chỉ là trên lý thuyết nếu như cá nhân chọn nghề không tích cực họat động và trải nghiệm. Không thể có sự phù hợp khi chọn nghề nếu như cá nhân không biết định hướng và có ý chí.

Nguyên nhân dẫn đến sai lầm khi chọn nghề

Có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc chọn nghề không tính đến những dấu hiệu của sự phù hợp. Loại nguyên nhân thứ nhất thuộc “thái độ không đúng”, còn loại nguyên nhân thứ hai do thiếu hiểu biết về các nghề. Dưới đây là một số nguyên nhân đó:

1. Cho rằng nghề thợ thấp kém hơn kỹ sư, giáo viên THCS thua kép giáo viên THPT… Thực ra mỗi nghề (hay đúng hơn là mỗi chuyên môn đó) có những bậc thang tay nghề của nó. Ví dụ, công nhân cơ khí có 7 bậc tay nghề. Người công nhân được đào tạo theo chương trình riêng, họ có vai trò quan trọng riêng trong các nhà máy, xí nghiệp. Một số bạn đã coi nhẹ công việc của người thợ, của thầy giáo cấp I, của cô y tá, chỉ coi trọng công việc kỹ thuật, của thầy giáo dạy ở bậc trung học hoặc đại học, của bác sĩ… Chính vì thế mà chỉ định hướng vào những nghề có sự đào tạo bậc đại học.

2. Thành kiến với một số nghề trong xã hội, chẳng hạn, coi lao động chân tay là nghề thấp hèn, chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”, v.v… Thường thường, những bạn này không thấy hết ý nghĩa của yếu tố lao động nghề nghiệp, đóng góp của nghề với xã hội. Đã là nghề được xã hội thừa nhận thì không thể nói đến sự cao sang hay thấp hèn được.

3. Dựa dẫm vào ý kiến người khác, không độc lập việc quyết định chọn nghề. Vì thế đã có nhiều bạn chọn nghề theo ý muốn của cha mẹ, theo ý thích của người lớn, theo lời rủ rê của bạn bè. Cách chọn nghề này đã dẫn đến nhiều trường hợp chán nghề vì không phù hợp.

4. Bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của nghề đó. Ví dụ, như với các nghề diễn viên điện ảnh, dẫn chương trình, người mẫu thời trang… rất hấp dẫn với các bạn trẻ, nhưng để thạo nghề thì phải rèn luyện gian khổ, vì vậy cũng dễ gây chọn nghề nhầm lẫn đối với ai chỉ thích vẻ hào hoa bề nổi của nghề đó. Hoặc nhiều bạn thích đi đây đi đó nên chọn nghề thăm dò địa chất, khi vào nghề, thấy công việc của mình gắn với rừng núi, quanh năm phải tiến hành công việc khảo sát, ít có dịp tiếp xúc với cuộc sống thành thị, thiếu điều kiện để giao lưu văn hóa và khoa học, do đó tỏ ra chán nghề. Có người chỉ tin vào quảng cáo của các cơ sở đào tạo mà chọn nghề vào học cũng sẽ dễ chán trường, chán nghề.

5. Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học tập một môn văn hóa nào đó là làm được nghề cần đến tri thức của môn đó. Ví dụ, có người học giỏi môn văn đã chọn nghề làm phóng viên báo chí. Đúng là nghề này cần đến người viết văn hay, diễn đạt tư tưởng rành mạch. Song, nếu không nhanh nhẹn, tháo vát, năng động, dám xông xáo… thì không thể theo đuổi nghề này được. Sai lầm ở đây là do không thấy rằng năng lực đối với môn học chỉ là điều kiện cần, chứ chưa là điều kiện đủ để theo đuổi nghề mình thích.

6. Có quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, quên mất những tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ ngày nay. Vì vậy, có bạn cho rằng học xong cấp I là đủ kiến thức để xin vào học nghề tại các trường dạy nghề. Có bạn lại nghĩ, với vốn liếng lớp 12, mình học ở trường nghề nào mà chẳng được. Thực ra, nghề nghiệp luôn thay đổi nội dung, phương pháp, tính chất lao động của nó. Người lao động không luôn luôn học hỏi, trau dồi năng lực thì khó có thể đáp ứng với yêu cầu về năng suất và hiệu quả lao động.

7. Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng trong khi chọn nghề. Do đó, có hai tình trạng thường gặp: hoặc đánh giá quá cao năng lực của mình, hoặc đánh giá không đúng mức và không tin vào bản thân. Cả hai trường hợp đều dẫn đến hậu quả không hay: Nếu đánh giá quá cao khi vào nghề sẽ vấp phải tình trạng chủ quan ban đầu, thất vọng lúc cuối. Còn nếu đánh giá quá thấp, chúng ta sẽ không dám chọn những nghề mà đáng ra là nên chọn. Có trường hợp ngộ nhận mình có năng khiếu về nghề hấp dẫn, thời thượng mà chọn nghề, khi vào nghề gặp thất bại sẽ chán nản.

8. Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khỏe của bản thân, lại không có đầy đủ thông tin về những chống chỉ định y học trong các nghề. Điều này cũng rất dễ gây nên những tác hại lớn: người yếu tim lại chọn nghề nuôi dạy trẻ, người hay viêm họng và phổi lại định hướng vào nghề dạy học, người có bệnh ngoài da lại đi vào nghề “dầu mỡ”, v.v…

Ba câu hỏi đặt ra trước khi chọn nghề

Chúng ta phải cân nhắc trước khi quyết định chọn cho mình một nghề. Vì vậy, có ba câu hỏi mà bạn trẻ nào cũng cần phải trả lời trước khi quyết định chọn nghề này hay nghề khác.

1. “Tôi thích nghề gì?”

Câu này nên trả lời trước tiên. Muốn làm nghề gì, trước hết bản thân ta có thích nó hay không, tức là có thực sự hứng thú với nó không. Nếu không thích thì đừng chọn. Đó là nguyên tắc. Chúng ta không thể thay đổi nghề dễ như thay đổi cái áo được. Hơn nữa, ta không dễ gì đến với nghề khác theo sở thích của bản thân mình ngay sau khi ta chán cái nghề đã chọn…

Chỉ khi nào thích nghề của mình thì cuộc sống riêng mới thanh thoát. Chúng ta mới gắn bó với công việc, với đồng nghiệp, với nơi làm việc.

2. “Tôi làm được nghề gì?”

Để trả lời câu này, phải tự kiểm tra năng lực của mình. Năng suất lao động của chúng ta có cao hay không là do năng lực của chúng ta đạt trình độ nào.

Các bạn nên nhớ rằng, có những nghề bạn thích nhưng lại không làm được (thiếu năng lực tương ứng). Song cũng có nghề bạn làm được nhưng lại không thích nó. Vì thế sau khi câu hỏi thứ hai được giải đáp, ta lại phải đối chiếu xem nó có thống nhất với câu hỏi thứ nhất hay không.

3. “Tôi cần làm nghề gì?”

Có những nghề được các bạn thích, các bạn lại có năng lực đối với chúng, song những nghề đó lại không nằm trong kế hoạch phát triển thì cũng không thể chọn được. Vì vậy, để trả lời câu hỏi này, ta phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất của địa phương, kế hoạch phát triển ngành nghề ở địa bàn tỉnh, huyện, kế hoạch tuyển sinh của các trường đại , cao đẳng và trường nghề, khả năng tìm được việc làm khi học xong nghề. Cần biết định hướng vào những nghề cần và có điều kiện phát triển, điều chỉnh hứng thú vào những nghề đó và tự rèn luyện để có năng lực đối với chúng. Ngày nay lại phải chọn nghề sao cho dễ chuyển nghề khi tình thế bắt buộc.

Ba câu hỏi trên cần được mỗi người giải đáp trong sự cân nhắc đồng thời. Như vậy, việc chọn nghề sẽ vừa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội, vừa bảo đảm mức độ phù hợp với hứng thú, sở thích, sở trường và năng lực của từng cá nhân.

Những quan niệm nghề nghiệp sai lầm

Trong quá trình tìm và làm việc, đôi khi bạn bị chi phối bởi những quan niệm không đúng. Chẳng hạn bạn cho rằng phải làm công việc liên quan đến chuyên ngành đã học mới dễ thành công, nhưng thực tế lại không hẳn như vậy…

Dưới đây là một vài quan niệm nghề nghiệp sai lầm. Nếu bạn đang giữ quan niệm đó, hãy mau mau thay đổi đi!

Những người giỏi nhất mới kiếm được việc

Thực tế: Những người giành được công việc là người ấn tượng nhất dù bằng cấp của họ không “bằng ai”. Ấn tượng ở đây có thể là bộ hồ sơ xin việc, phong cách trả lời phỏng vấn tự tin, bầu nhiệt huyết hừng hực, luôn sẵn sàng hết mình vì công việc, khả năng vượt trội so với các ứng viên khác, sự thông minh, v.v…

Đôi khi, bạn chỉ có bằng trung cấp nhưng lại rất giỏi giao tiếp. Hay bạn rất chân thành và chăm chỉ. Nói tóm lại, bạn có thể thuyết phục nhà tuyển dụng bằng nhiều cách chứ không phải chỉ có bằng cấp không đâu.

Công việc nhất thiết phải liên quan đến chuyên ngành tôi đã được đào tạo

Thực tế: Không đúng đâu! Đôi khi bạn đã mất cả 4 năm để học một chuyên ngành mà bạn không hề thích, đừng phí phạm thêm cả phần đời còn lại của mình để gắn bó với nó nữa. Bạn có thể học ngoại ngữ nhưng lại rất thành công trong kinh doanh. Có thể bạn không hề biết rằng mình có một năng khiếu tiềm ẩn nào đó chưa được khai thác.

Bảng điểm đẹp và tấm bằng loại ưu giúp tôi tìm được một công việc tuyệt vời

Thực tế: Tấm bằng khá-giỏi của bạn không phải là chiếc vé duy nhất để có được một công việc. Bảng điểm đẹp cũng không phải là tấm giấy thông hành đảm bảo chắc chắn cho bạn một công việc tốt. Nhiều nhà tuyển dụng thích những nhân viên làm được việc và có nhiều kinh nghiệm hơn.

Tôi sẽ chung thủy với một công việc

Thực tế: Hầu hết sinh viên mới tốt nghiệp chỉ gắn bó với công việc đầu tiên từ 1-3 năm. Sau khi đã ra trường đời và có kinh nghiệm, họ thường tìm cho mình một công việc tốt hơn. Hơn nữa, trong thời đại này, “nhảy việc” cũng chẳng phải là điều gì quá xa lạ. Bản thân những nhà quản lý cũng chưa chắc đã “chuộng” bạn mãi.

Khi không hài lòng với công việc hiện tại, khi bạn cảm thấy mình bị đối xử không tốt, hãy tìm cho mình một chân trời mới. Đừng an phận và im lặng. Đã qua rồi cái thời người lao động phục vụ cả cuộc đời cho một ông chủ.

Gia đình và bạn bè có thể giúp tôi chọn đúng nghề

Thực tế: Nhớ rằng chính bạn chứ không phải cha mẹ, anh chị hay bạn bè sẽ sống chết với nghề đã chọn. Gắn kết với công việc là bạn, vậy thì người chọn nghề cũng sẽ là bạn. Tất nhiên bạn có thể tham khảo thêm ý kiến người thân, nhưng chính bạn chứ không phải ai khác sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng. Chỉ có bạn mới hiểu rõ mình thật sự phù hợp với công việc nào.

Tôi chưa tốt nghiệp, tôi chưa cần chuẩn bị hồ sơ

Thực tế: Bắt đầu viết resume ngay từ khi còn ngồi trên giảng đường là một quyết định sáng suốt. Khi đó, bạn sẽ nhận ra mình còn quá nhiều lỗ hổng về kinh nghiệm, về bằng cấp, năng lực,… và bạn sẽ bổ sung chúng kịp thời.

Phỏng vấn xin việc thật dễ dàng nếu khéo ăn nói

Thực tế: Chỉ khéo nói và biết thể hiện mình chưa đủ. Các nhà tuyển dụng nhiều kinh nghiệm sẽ nhìn ra trong câu nói của bạn có bao nhiêu phần trăm là sự thật đấy.

Tôi đã gửi hồ sơ. Nếu cần, họ sẽ tự liên lạc

Thực tế: Cách tiếp cận bị động này không còn phù hợp với thị trường lao động ngày nay bạn cần chủ động liên lạc và đề nghị được phỏng vấn. Đừng sợ “mất giá”, tính chủ động và tự tin luôn được đánh giá cao.

Lương bổng là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định nhận một công việc

Thực tế: Sai! Hai yếu tố quan trọng nhất chính là nội dung công việc và sếp mới. Bạn sẽ phải dành nhiều thời gian cho công việc hơn cho gia đình và bất cứ thứ gì khác, do đó hài lòng với công việc được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, đôi khi bạn sẽ phải nhìn mặt sếp nhiều hơn mặt vợ (chồng). Một vị quản lý có tính cách “không thể chấp nhận được” sẽ khiến đầu bạn nổ tung.

Lương bổng là chuyện quan trọng nhưng đừng quá để ý đến nó mà quên đi những tiêu chuẩn khác.

Công ty sẽ lo cho sự nghiệp của tôi

Thực tế: Ngày nay khác rồi bạn ơi. Trong thị trường lao động đầy biến động này, ngay cả khi bạn làm tốt thì cũng chưa chắc công ty sẽ đảm bảo cho tương lai của bạn.

Những yêu cầu của nghề

Nghề trong xã hội hết sức đa dạng và những yêu cầu của nghề đặt ra cho người lao động cũng hết sức khác nhau. Ngoài những yêu cầu chung nhất là lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp… còn cần quan tâm tránh những khuyết tật của cơ thể.

Hầu như các “thiếu sót” đó không hại gì đến sức khỏe, nhưng chúng lại không cho phép ta làm nghề này hay nghề khác. Ví dụ, với nghề thêu thủ công, chỉ cần hay ra mồ hôi ở lòng bàn tay là các bạn không thể làm tốt công việc kỹ thuật của nghề đó, mặc dù mồ hôi tay không làm cho bạn suy giảm thể lực. Nghề đòi hỏi đứng bên máy không cho phép tuyển người mắc tật bàn chân bẹt (sự tiếp xúc của bàn chân đối với mặt đất quá lớn).

Có những nghề nhìn hình thức bề ngoài thì giống nhau, nhưng những yêu cầu để lao động thuận tiện với người lao động lại khác nhau. Ví dụ như công việc của người lái xe vận tải và người lái xe cần trục, cả hai đều cùng ngồi sau tay lái, điều khiển tốc độ xe luôn thay đổi và đòi hỏi người lao động không được mắc chứng mù màu, chứng ngủ gật, lại phải có phản ứng nhanh. Nhưng đối với lái xe cần trục, do xe cần trục khi nâng chuyển một khối lượng hàng lớn nên không được đỗ ở nơi có mặt phẳng nghiêng quá 3 độ vì nó rất dễ bị lật xe, người lái xe cần trục phải có năng lực bằng mắt để đánh giá độ nghiêng của mặt đất nơi đỗ xe thật chính xác và phải cảm nhận được tốc độ và hướng gió bằng da của mình, vì khi quay cần trục đang móc hàng phải tính đến tốc độ và hướng của gió. Chỉ với người có năng lực như vậy mới hạn chế được tai nạn khi cẩu một vật nặng.

Nghề nào cũng yêu cầu người lao động phải chú ý vào công việc. Có nghề đòi hỏi người lao động phải tập trung sự chú ý vào một đối tượng (quan sát màn hình của máy vi tính…), nhưng có nghề cần ở người lao động sự phân phối chú ý đến nhiều đối tượng trong cùng một lúc (dạy học, huấn luyện phi công, điều độ ở ga…). Lại có nghề cần đến sự di chuyển chú ý, tức là nhanh chóng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác (lái xe, lái tàu, phiên dịch…).

Nghề nào cũng yêu cầu con người có thể lực tốt, dẻo dai trong công việc. Song có nghề cần đến sự dẻo dai về cơ bắp, có nghề lại đòi hỏi sự dẻo dai của hệ thần kinh. Người công nhân bốc vác ở bến cảng phải liên tục bê vác nặng hay lái xe chuyển hàng nhiều giờ liên tục. Còn người nghiên cứu khoa học có khi phải đọc liền 10 giờ một ngày ở thư viện, hơn nữa việc đó thường kéo dài hàng tháng. Cả hai đều cần sức khỏe tốt, dẻo dai, nhưng một bên dùng cơ bắp, bên kia dùng trí óc.

Vậy, khi chọn nghề mỗi người chúng ta phải biết nghề có yêu cầu như thế nào đối với người lao động. Không có đủ những phẩm chất tâm lý và sinh lý để đáp ứng yêu cầu của một nghề cụ thể thì đừng chọn nghề đó. Ví dụ: Người phản ứng chậm chạp không nên vào nghề lái xe, người tính quá hiếu động, không nên chọn nghề điều độ thông tin giao thông, điện lực, qua hệ thống mạng màn hình…

Sự phù hợp nghề

Để có sự thành đạt trong nghề, con người phải chọn cho mình một nghề phù hợp. Trong xã hội ngày nay, số lượng nghề ngày càng tăng, con người không dễ dàng gì lựa chọn cho mìnhmột nghề giữa hàng trăm nghề khác nhau.

Đề cập tới việc chọn được nghề phù hợp, trước hết ta phải làm rõ khái niệm phù hợp nghề. Sự phù hợp nghề được xem là sự hòa hợp, sự ăn khớp, sự tương xứng trong cặp “Con người - Nghề nghiệp”, mà cụ thể hơn, là sự tương ứng giữa những phẩm chất, đặc điểm tâm - sinh lý của con người với những yêu cầu cụ thể của công việc trong nghề đối với người lao động. Nói như vậy ta sẽ thấy ngay rằng, sự phù hợp nghề có nhiều mức độ. Thông thường, người ta chia thành 4 mức độ sau đây:

1/ Không phù hợp: Sự không phù hợp có nhiều nguyên nhân như trạng thái sức khỏe, thiếu năng lực chuyên môn hoặc bị dị tật. Ví dụ muốn đi vào nghề hội họa, lái xe, nhuộm vải, sáng tạo “mốt” quần áo thì tối kỵ bệnh mù màu (không phân biệt màu xanh với màu đỏ). Muốn theo nghề thợ lặn, đi tàu biển hoặc lái máy bay thì nhất thiết không được mắc bệnh tim mạch, bệnh đường hô hấp…

2/ Phù hợp một phần: Ở mức độ này, nhiều phẩm chất, nhiều đặc điểm tâm - sinh lý của người lao động không đáp ứng được hết những yêu cầu do nghề đặt ra. Nếu chỉ phù hợp một phần thì con người rất khó trở thành một chuyên gia giỏi trong nghề.

3/ Phù hợp phần lớn: Trong trường hợp này, những phẩm chất cá nhân đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của nghề hoặc của nhóm nghề. Mức độ phù hợp phần lớn thường thể hiện rất rõ ở hứng thú với công việc của nghề, ham thích và có năng lực giải quyết nhiều hoạt động kỹ thuật trong nghề. Có được sự phù hợp phần lớn này, con người sẽ thuận lợi trong phấn đấu trở thành người lao động có tay nghề cao hoặc dễ có được những thăng tiến nghề nghiệp so với những người ít phù hợp với nghề hơn.

4/ Phù hợp hoàn toàn: Đạt tới mức độ này, ta thấy con người đáp ứng được tất cả những yêu cầu cơ bản do nghề đặt ra. Trong hoạt động nghề nghiệp, người lao động có năng suất cao, thể hiện rõ xu hướng hoạt động và lý tưởng nghề nghiệp.

Người ta chỉ cần làm một loạt những biện pháp nhằm đối chiếu những đặc điểm tâm, sinh lý của con người với hệ thống các yêu cầu do nghề đặt ra mà kết luận về mức độ phù hợp nghề của người đó. Sự phù hợp nghề thường thể hiện ở ba dấu hiệu:

- Bảo đảm tốc độ làm việc, tức là bảo đảm được yêu cầu về số lượng công việc theo định mức lao động. Người ta có thể đo, đếm được các động tác lao động để kết luận về sự phù hợp nghề.

Ví dụ:

+ Người hái chè mỗi ngày phải thực hiện khoảng 500.000 đến 600.000 vận động của ngón tay thì mới hái được lượng lá chè theo quy định.

+ Người thợ dệt “nửa tự động hóa” phải đi “tua” mỗi ngày khoảng 6 km mới bảo đảm các máy chạy đều, kịp thời điều chỉnh máy và sửa chữa những hỏng hóc nhỏ.

- Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Người lao động phải làm ra mặt hàng đúng quy cách, không có số lượng phế phẩm quá con số cho phép, không để công cụ lao động bị hư hỏng v.v…

- Không bị công việc nghề nghiệp gây nên những độc hại cho cơ thể. Ví dụ, làm việc ở nhà máy sơn thì không bị dị ứng sơn, làm công việc của thợ hàn mà không bị hỏng mắt, không vì lên lớp giảng nhiều lần mà bị viêm họng hoặc viêm phổi v.v…

Cũng cần nói thêm rằng, có rất nhiều trường hợp người ta thấy không phù hợp với nghề, nhưng nếu yêu thích nghề mà quyết tâm rèn luyện thì sự phù hợp lại có thể được tạo ra. Tất nhiên có những chứng tật ngay từ đầu đã khẳng định về sự không phù hợp mà ta phải tuân thủ. Chẳng hạn, những bạn mắc chứng say xăng thì không được theo đuổi nghề lái xe, ai có chứng thấy máu mủ đã bị ngất thì tránh chọn nghề thầy thuốc, bị tật nói ngọng thì nên tránh nghề dạy học.

Công thức nghề là gì?

Một trong những cách phân loại nghề hợp lý là xây dựng công thức nghề. Những nghề có cùng công thức được xếp vào một loại. Nếu phù hợp với một nghề thì tất nhiên sẽ phù hợp với những nghề cùng loại.

Cách lập công thức nghề như sau:

Người ta nhận thấy rằng nghề nào cũng có 4 dấu hiệu cơ bản là:
- Đối tượng lao động
- Mục đích lao động
- Công cụ lao động
- Điều kiện lao động

1/ Đối tượng lao động

Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính, những mối quan hệ qua lại của các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất định, con người phải vận dụng chúng.

Ví dụ: đối tượng lao động của người làm nghề trồng trọt là những cây trồng cùng những điều kiện sinh sống và phát triển của chúng như đất đai, cỏ dại, đặc điểm khí hậu, thời tiết, tác dụng của thuốc trừ sâu các loại… Những thuộc tính của cây trồng, của môi trường phát triển rất đa dạng và phức tạp: sức phát triển của mầm, phương thức diệt cỏ dại, khả năng thích ứng của cây đối với cách thức chăm sóc, với thời tiết thay đổi.

Căn cứ vào đối tượng lao động, người ta chia các nghề ra thành 5 kiểu. Đó là:

- Nghề “Người tiếp xúc với thiên nhiên” (trồng trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ rừng…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nt.

- Nghề “Người tiếp xúc với kỹ thuật” (các loại thợ nề, thợ tiện, thợ nguội, lắp ráp máy truyền hình và máy tính, thợ sửa chữa công cụ…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nk.

- Nghề “Người tiếp xúc với người” (nhân viên bán hàng, nhân viên phục vụ khách sạn, thầy thuốc, thầy giáo, thẩm phán v.v…). Kiểu nghề này được ký hiệu là N2.

- Nghề “Người tiếp xúc với các dấu hiệu” (thư ký đánh máy, chế bản vi tính, ghi tốc ký, sắp chữ in, lập trình máy tính…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nd.

- Nghề “Người tiếp xúc với nghệ thuật” (họa sĩ, nhà soạn nhạc, thợ trang trí, thợ sơn…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nn.

2/ Mục đích lao động

Mục đích lao động là kết quả mà xã hội đòi hỏi, trông đợi ở người lao động. Mục đích cuối cùng của lao động trong nghề phải trả lời được câu hỏi: “Làm được gì?”. Ví dụ: mục đích của người dạy học là mang lại kiến thức, học vấn cho con người, giúp cho con người hình thành một số phẩm chất nhân cách. Mục đích của thầy thuốc là làm cho người bệnh trở thành người khỏe mạnh, giúp cho con người bảo vệ và phát triển sức khỏe, thể lực trong đời sống hàng ngày.

Căn cứ vào mục đích lao động, người ta chia các nghề thành 3 dạng sau đây:

- Nghề có mục đích nhận thức đối tượng (thanh tra chuyên môn, điều tra vụ án, kiểm tra kho hàng, kiểm kê tài sản…). Dạng nghề này được ký hiệu là N.

- Nghề có mục đích biến đổi đối tượng (dạy học, chữa bệnh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp…). Dạng nghề này được ký hiệu là B.

- Nghề có mục đích tìm tòi, phát hiện, khám phá những cái mới (nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật, tạo giống mới, thiết kế thời trang…). Dạng nghề này được ký hiệu là T.

3/ Công cụ lao động

Công cụ lao động bao gồm các thiết bị kỹ thuật, các dụng cụ gia công, các phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con người về các đặc điểm của đối tượng lao động, làm tăng sự tác động của con người đến đối tượng đó. Những máy móc để biến đổi năng lượng, xử lý thông tin, đo lường chất lượng sản phẩm, những công thức và quy tắc tính toán cũng được coi là công cụ lao động.

Ví dụ: Cần cẩu là công cụ lao động, là “cánh tay kéo dài” của thợ lái máy xúc đất và mang chuyển hàng hóa từ vị trí này sang vị trí khác. Xe vận tải là công cụ lao động của những người chuyên chở hàng hóa, làm tăng sức mang vác của họ có khi đến hàng nghìn, hàng vạn lần.

Căn cứ vào công cụ lao động, người ta chia các nghề thành 4 loại sau đây:

- Nghề với những hình thức lao động chân tay (khuân vác, khơi thông cống rãnh, lắp đặt ống nước, quét rác…). Loại nghề này được ký hiệu là Lt.

- Nghề với những công việc bên máy (tiện, phay, xây dựng, lái xe…). Loại nghề này được ký hiệu là Lm1.

- Nghề làm việc bên máy tự động (làm việc ở bàn điều khiển, các loại máy thêu, máy dệt, máy in hoa trên vải, tiện hoặc phay các chi tiết theo chương trình máy tính…). Loại nghề này được ký hiệu là Lm2.

- Nghề lao động bằng những công cụ đặc biệt như ngôn ngữ, cử chỉ (dạy học, làm thơ, múa hát, nghiên cứu lý luận…). Loại nghề này được ký hiệu là Lđ.

4/ Điều kiện lao động

Điều kiện lao động ở đây được hiểu là những đặc điểm của môi trường làm việc. Căn cứ vào điều kiện lao động, người ta chia các nghề thành 4 nhóm sau đây:

- Nghề cần phải tính đến môi trường đạo đức, chính trị là chủ yếu (xử án, chữa bệnh, dạy học, quản giáo tội phạm…). Nhóm nghề này đượcký hiệu là Đ.

- Nghề được tiến hành trong không gian sinh hoạt bình thường (kế toán, đánh máy, trực điện thoại, lưu trữ tài liệu, thợ may…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Ks.

- Nghề làm trong khoảng không gian khoáng đạt, gần gũi với thiên nhiên (chăn gia súc, súc vật trên đồng cỏ, trồng rừng, bảo vệ rừng, trồng hoa…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Kk

- Nghề được tiến hành trong điều kiện đặc biệt (du hành vũ trụ, thám hiểm đáy biển, lái máy bay thí nghiệm, xây dựng dưới nước…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Kđ.

Tổ hợp các dấu hiệu Kiểu, Dạng, Loại, Nhóm của một nghề cho ta công thức của nghề đó. Ví dụ:

- Công thức của nghề dạy học là: N2BLđĐ
- Công thức của nghề lái xe là: NkBLm1Kk

Thật ra công thức nghề cũng chỉ bảo đảm mức độ tượng đối chính xác về các dấu hiệu nói trên. Hiện nay, việc phân loại nghề theo công thức nghề là một bước tiến mới trong quá trình nhận thức thế giới nghề nghiệp. Đến đây ta thấy rằng, có một số nghề chung nhau công thức. Do vậy, nếu không chọn được một nghề nào đó, ta có thể chọn cho mình một nghề khác có cùng công thức. Cũng có những nghề khác nhau nhiều hoặc ít về công thức nghề. Một người sẽ rất khó chuyển từ nghề này sang nghề khác mà giữa hai nghề ấy có sự khác biệt quá lớn trong công thức nghề.

Phân loại nghề

Muốn nhận thức một cách khoa học về các sự vật và hiện tượng, người ta thường dùng phương pháp phân loại. Ví dụ: phân loại động vật, thực vật, ôtô, máy bay, tên lửa, vệ tinh nhân tạo, các nền văn minh, các loại kiến trúc… Song, khi phân loại nghề nghiệp, các nhà khoa học vấp phải không ít khó khăn vì số lượng nghề và chuyên môn quá lớn, tính chất và nội dung các nghề quá phức tạp.

Có người đề nghị phân loại nghề theo các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, giáo dục, an ninh, quốc phòng… Làm theo cách này, người ta thấy thuận tiện cho việc thống kê các thành tích của từng lĩnh vực, những đóng góp của các ngành vào thu nhập quốc nội (GDP) v.v…, nhưng lại thấy có những bất hợp lý. Chẳng hạn, nghề lái xe xếp vào lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải hay xây dựng? Trên thực tế, các lĩnh vực kể trên đều cần đến phương tiện vận tải là ôtô. Vì vậy, cách phân loại này chỉ sử dụng trong một số công việc nào đó.

Nhà khoa học Líp-man đưa ra một cách phân loại khác, trong đó, có phân biệt nghề sáng tạo và không sáng tạo. Nhiều người không đồng tình bởi cho rằng hình thức lao động nào cũng có thể mang tính sáng tạo. Về vấn đề này, đại văn hào Măc-xim Goóc-ky có một ý kiến rất chí lý rằng, nếu ta yêu thích công việc ta làm thì dù công việc đó có đơn giản đến đâu, nó cũng có thể mang ý nghĩa sáng tạo.

Cũng có nhà khoa học đưa ra cách phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động. Với cách phân loại này, các nghề được phân vào 8 lĩnh vực sau đây:

1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính

Trong lĩnh vực này, ta gặp những cán bộ, nhân viên văn phòng, đánh máy, lưu trữ, kế toán, kiểm tra, chấm công, soạn thảo công văn… Những nghề này đòi hỏi con người đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, chín chắn, tỉ mỉ. Mọi tác phong và thói quen không hay như cẩu thả, bừa bãi, đại khái, thiếu ngăn nắp, thờ ơ, lãnh đạm… đều không phù hợp với công việc hành chính.

2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người

Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…

Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi v.v… đều xa lại với các công việc nói trên.

3/ Những nghề thợ (công nhân)

Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…

Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không thể thiếu được ở người thợ.

Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ, Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).

4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật

Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.

5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật

Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng v.v… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.

6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học

Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn, trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.

7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên

Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.

8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt

Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định.

Khái niệm chung về nghề

Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.

Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời…

Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…

Khi giúp đỡ thanh niên chọn nghề, một số nhà nghiên cứu thường đặt câu hỏi: “Bạn biết được tên của bao nhiêu nghề?”. Nghe hỏi, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng mình có thể kể ra nhiều nghề, song khi đặt bút viết thì nhiều bạn không kể được quá 50 nghề.Bạn tưởng như thế đã là nhiều, song nhà nghiên cứu lại nhận xét: Chà, sao biết ít vậy!

Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại kêu lên như vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm sáng rõ 2 khái niệm Nghề Chuyên môn.

Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.

Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.

Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000.

Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường (dạy nghề, trung học chuyên ngiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.

Lời Hay Ý Đẹp

* Cách giữ bạn tốt nhất là không phản bội bạn.
Khuyết Danh
* Tự ái là thuốc độc giết chết tình bạn.
HONORÉ DE BALZAC
* Dễ thăm viếng bạn bè hơn là sống chung với họ.
tục ngữ Trung Quốc
* Nếu anh muốn làm cho người bạn trở thành người nguy hiểm đối với anh, hãy để người bạn làm ơn anh một lần.
LEWIS E. LAWES
* Người ta có ba người bạn chắc chắn: cha, mẹ và vợ chung thủy.
J.R. LOWELL
* Bạn giả dối còn nguy hiểm hơn kẻ thù lộ mặt.
tục ngữ Nhật Bản
* Nỗ lực lớn nhất của tình bạn không phải là chỉ thẳng cho bạn thấy khuyết điểm mà là làm cách nào để cho bạn thấy được nó.
LA ROCHEFOUCAULD
* Không có người bạn tốt thì người ta không biết được lỗi lầm của mình.
tục ngữ Nga
* Với tình bạn thân thiết không có con đường xa.
tục ngữ CAMPUCHIA
* Những lời nói nhân nghĩa, những lời hứa nhân nghĩa nói ra rất dễ, chỉ trong hoạn nạn ta nói thấy tấm lòng thành của bạn bè.
La. KRULOV

References